TOP 3 LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở ĐẮK NÔNG
Lễ hội là một trong những nét đẹp văn hóa cũng như tín ngưỡng của các dân tộc tại Tây Nguyên. Bạn đã biết một trong số đó ở Đắk Nông có những lễ hội đặc sắc nào chưa. Hay cùng EJ Farm cùng khám phá nhé!
1. Lễ hội đua voi
Nguồn ảnh: Tạp chí môi trường và Cuộc sống
Đua voi là một trong những nét văn hóa truyền thống của người Tây Nguyên được tổ chức 2 năm một lần vào tháng 3 dương lịch,lễ hội thường được tổ chức ở Buôn Đôn
Khoảng 30 con voi sẽ đứng xếp hàng vào một bãi đất trống có chiều dài khoảng 300-400m.
Đến giờ chuẩn bị vào cuộc đua, các nài voi cho voi đứng xếp hàng ngay ngắn ở điểm xuất phát. Sau một hồi tù và cất lên vang dậy cả núi rừng thì cũng là lúc các chú voi tiến thẳng về phía trước trong tiếng cồng chiêng và tiếng hò reo cổ vũ của mọi người. Cuộc đua được tiến hành dưới sự điều khiển của các nài voi dưới nhiều hình thức thi như: voi chạy tốc độ, voi kéo cây, voi ném gỗ, voi bơi vượt sông, voi đá bóng,… Sau cuộc thi tất cả các “vận động viên voi” đều được thưởng mía chuối… Riêng chú voi thắng cuộc đeo một vòng nguyệt quế và được thưởng rất nhiều thức ăn ngon.
2. Lễ hội cồng chiêng
Nguồn ảnh: Báo Dân tộc và Phát triển
Cồng chiêng không chỉ để giao lưu với thần linh, thông tin đến mọi người trong buôn làng, mà còn là tâm hồn của người Tây Nguyên đầy trữ tình và khát vọng yêu cuộc sống. Cồng chiêng Tây Nguyên bao giờ cũng có bộ, mỗi dân tộc có một bộ chiêng khác nhau, dàn chiêng Ê đê có từ 7-10 chiếc. Chỉ cần nghe âm điệu là biết ngay nơi đó có việc gì đang diễn ra, chiêng bỏ mả chầm chậm như tiếc thương; chiêng đám cưới rộn ràng; chiêng cúng bái trang trọng ngân nga…Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là di sản truyền khẩu và phi vật thể nhân loại (25-11-2005).
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Khon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đăk Nông, Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn hóa đặc sắc này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên: Bana, Xêđăng, Mnông, Cơho, Rơmăm, Êđê, Giarai... Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ.
Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa và lịch sử rất lâu đời. Về cội nguồn, có nhà nghiên cứu cho rằng, cồng chiêng là "hậu duệ" của đàn đá. trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá: cồng đá, chiêng đá... tre, rồi tới thời đại đồ đồng, mới có chiêng đồng... Từ thuở sơ khai, cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín ngưỡng - là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên... âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòng người, sống mãi cùng với đất trời và con người Tây Nguyên. Tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu.. . hay trong một buổi nghe khan... đều phải có tiếng cồng. Tiếng chiêng dài hơn đời người, tiếng chiêng nối liền, kết dính những thế hệ.
3. Lễ hội bỏ mả
Nguồn ảnh: Tôn giáo- Thời báo Tài chính Việt Nam
Người dân Tây Nguyên không có tục thờ cúng tổ tiên nên khi người chết được một năm hay đến ba năm thì người thân trong gia đình làm lễ bỏ mã. Ngôi mộ được xây cất kỹ lưỡng, dựng lên một ngôi nhà đẹp để che mưa che nắng, quanh mồ được trang trí bằng các tượng gỗ có hàng rào xung quanh.
Người Ê đê cũng có quan niệm riêng về luân hồi vòng đời của mỗi con người, từ đó nó ảnh hưởng đến quan niệm và sự sống và cái chết, về quan niệm máu mủ, cộng đồng. Vì vậy, đối với người Ê đê, lễ bỏ mả là dịp vui mừng để hồn người chết còn quẩn quanh người sống, sớm trở thành giọt sương để đầu thai lại thành người. Hồn người chết đầu thai vào đứa trẻ so sinh, mang hồn và tên tổ tiên, đảm bảo tính trường tồn và bền vững của cộng đồng huyết tộc.
Lễ bỏ mả là một trong những lễ quan trọng của người Ê đê. Thời gian bỏ mả tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của thân nhân người chết, nghĩa là lúc nào có đủ trâu bò, rượu thịt. Chủ xướng của lễ bỏ mả là một gia đình, một dòng họ hay có khi cả buôn. Nhà giàu, dòng họ lớn thì giết nhiều trâu bò, buộc nhiều ché rượu. Nhà nghèo thì phải có đủ rượu thịt để cung cấp ăn uống và phân chia cho người dự lễ.
Nghi thức chính của lễ bỏ mả diễn ra ở khoảng đất rộng của nghĩa địa. Bò đực được xẻ thịt ngay tại đó, rượu cần được buộc thành hàng, bàn cúng được dựng bằng tre, nứa, trên đó bày đồ cúng cho linh hồn người chết. đồ cúng gồm một chén cơm trắng, một chén thịt sống thái nhỏ có trộn tiết của con vật vừa bị giết cùng với một mẫu đuôi, một chiếc xương đầu và bầu rượu được hút ra từ ché rượu…Thực chất của lễ bỏ mả là sự tuyên bố đoạn tuyệt của người sống và người chết. Sau lễ này, linh hồn người chết sẽ siêu thoát chuyển sang kiếp khác và mộ người chết trở nên vô chủ.